Môi trường sinh thái là một mạng lưới toàn được liên kết chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các sinh vật sống trong phạm vi toàn cầu. Gián đoạn bất ổn trong những nỗ lực nhất định trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội đến từ thiên nhiên, là một phần của tự nhiên. Thông qua lao động, khai thác của con người và bảo vệ bồi đắp tự nhiên. Cũng trong thời gian đó xã hội loài người đã dần đối lập với thiên nhiên.
Sự suy thoái của môi trường sinh thái toàn cầu hiện nay được thể hiện rõ trong các vấn đề sau đây:
Đầu tiên là sự suy giảm của tầng ozone. Ozone là lớp khí (O3) rất dày bao phủ trái đất và có thể hoạt động như một tấm đệm để bảo vệ trái đất khỏi tia cực tím của ánh mặt trời chiếu đất. Có thể nói mà không có tầng ozone, sự sống trên Trái đất không tồn tại (ozone đã hấp thu 99% của bức xạ tia cực tím của ánh mặt trời chiếu đất). Suy thoái Ozone sẽ tác động đến tất cả các sinh vật sống trên trái, làm trầm trọng thêm bệnh, làm giảm khả năng miễn dịch của con người. Vào cuối năm 1985, các nhà khoa học Anh đã phát hiện ra một lỗ hổng ở Nam Cực, trong năm 1988 chúng tôi một lần nữa phát hiện ra các lỗ ozone ở Bắc Cực ... Nguyên nhân của sự suy giảm của tầng ozone được gây ra bởi các hợp chất carbon fluoride hoặc brôm. Ước tính mỗi năm có khoảng 788.000 tấn CFH3 (Clo-ro Carbon) phát thải vào môi trường, chất này được sử dụng rộng rãi trong công nghệ đông lạnh và dung môi. Ozone vấn đề cạn kiệt lớp đã được đề cập đến một trong những chủ đề gây tranh cãi và cấp bách nhất của con người - vấn đề của bệnh trong việc phát triển các điều kiện xã hội. Ung thư như vậy vẫn còn là thế giới coi là vô phương cứu chữa. Suy thoái ozone Sư Phụ đã gây ra nhiều nước để thức dậy và lo lắng. Trong đầu năm 1987, 27 quốc gia đã ký Công ước Vienna về bảo vệ tầng ozone. Các nước công nghiệp phát triển nhất cam kết giảm dần và tiến tới không sử dụng, sản xuất và xử lý các chất gây hại tầng ôzôn vào năm 2000. Đây là một quyết định thông minh và nhân đạo. Nhưng cho đến nay độ dày giảm của tầng ozone vẫn còn là một vấn đề quan tâm và lo lắng của nhân loại. Những hậu quả tiêu cực của hiện tại vẫn không thể được chấm dứt ngay lập tức.
Thứ hai là hiện tượng "hiệu ứng nhà kính". Trái đất và bầu khí quyển được xem như là một nhà kính khổng lồ trong đó Trái Đất có nguy cơ bị nóng. Nhiệt độ tăng hiện tượng trái đất được gọi là "hiệu ứng nhà kính". Nguyên nhân của hiện tượng này là do sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch, do diện tích giảm của rừng ..., lượng khí thải độc hại của CO2, CH4, CFC3 .. trong tự nhiên hơn.
Trong thế kỷ này, nhiệt độ của trái đất tăng từ 0,30C 0,70C hơn một thế kỷ trước. Các nhà khoa học dự đoán rằng vào năm 2030 nếu lượng khí thải CO2 tăng lên, nhiệt độ tăng gấp đôi từ 1,50C đến 4,50C. Khi nồng độ CO2 trong khí quyển tăng, một phần của nhiệt độ trái đất tăng lên để đáp ứng CO2 sẽ phản ánh nhiệt trở lại trái đất. Sự tăng nhiệt độ của trái đất sẽ làm tan chảy khối lượng khổng lồ ở hai cực và làm cho mực nước biển dâng. Mực nước biển dâng là một mối đe dọa đối với nhiều quốc gia và hàng triệu mạng sống của người dân trên toàn thế giới.
"Hiệu ứng nhà kính", một hiện tượng liên quan đến ô nhiễm môi trường khác cũng không kém phần nguy hiểm như mưa axit. Trong các chất khí thải vào bầu khí quyển, SO2 và NO2 đặc biệt theo hơi nước cao hơn, họ bị oxy hóa và thủy phân để tạo thành axit, có mưa lạnh trên trái đất. Mưa axit có tác hại rất lớn đến hệ sinh thái nông nghiệp, làm giảm năng suất cây trồng, cũng đã bị mất vị trí, làm giảm chất lượng của các loại cây trồng, vật nuôi, gây thiệt hại nghiêm trọng các khu rừng ôn đới Bắc bán cầu. Mưa axit cũng có thể gây ô nhiễm ống dẫn nước uống và uống nước con người và động vật, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và cuộc sống của con người.
Hơn nữa suy thoái môi trường cũng được phản ánh trong các ô nhiễm của nước ngọt. Tổng lượng nước trên toàn cầu là 1.360 triệu km3, bao gồm cả các tài khoản nước ngọt cho chỉ có khoảng 3%, và người dân chỉ sử dụng khoảng 1% để phục vụ nhu cầu của xã hội. Nhưng đó 1% bị ô nhiễm bởi chất thải từ sinh hoạt, sản xuất ... Khi dùng trong công nghiệp hóa chất, thuốc trừ sâu và phân bón hóa học sử dụng trong nông nghiệp ...
Nguyên nhân chính dẫn đến một loạt các suy thoái sinh thái trên, trước hết là cho sự phát triển của ngành công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là ô nhiễm công nghiệp. Mỗi hoạt động sản xuất năm vào khí quyển 150 triệu tấn SO2, 200 triệu tấn CO2, 350.000 tấn CFC3 ... (By Phạm Thanh Dũng - môi trường sinh thái, giáo dục Tạp chí Lý luận 3-99). Chất có các yếu tố khác trong hệ thống, môi trường sinh thái toàn không thể hấp thụ, vì vậy ông có hại đến tầng ozone, nước sạch ...
Lý do thứ hai là phá rừng ngày càng nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu. Chúng tôi có thể nói rừng là cuộc sống của nhà máy và sản xuất của xã hội là không khí trong lành, năng suất cây trồng rừng ... Rừng có vai trò quan trọng như vậy, nhưng bây giờ rừng của thế giới đang kêu gọi sự giúp đỡ, cứ mỗi phút trôi qua với 21,5 ha rừng nhiệt đới bị phá hủy. Những mất mát của rừng qua nghèo khổ lớn, tất yếu dẫn đến đất đai và sự biến mất dần những sinh vật quý hiếm, sự đậm đặc của CO2 trong khí quyển - một trong những loại khí quan trọng nhất gây ra "hiệu ứng nhà kính", để tăng nhiệt độ trung bình của trái đất ...
Một lý do khác là do sự mất cân đối nguồn lực và dân số. Dân số tăng nhanh đòi hỏi tài nguyên khai thác nhịp cao hơn tự do hơn, chất thải tăng nhanh hơn loại dẫn đến sự mất cân bằng, để ráo nước về tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Cuộc chạy đua vũ trạng, sản xuất vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học, cũng như nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, đã tạo ra khả năng tiêu diệt các cuộc xung đột thiên nhiên thông qua chiến tranh.
Đối với Việt Nam, nhưng là một nước nông nghiệp, để tiếp tục sự phát triển của xã hội chúng ta vẫn không được vượt quá mức của nền văn minh công nghiệp, nhưng điều đó không có nghĩa là không có nguy hiểm của hành vi đe dọa sinh.
Ở các nước phát triển, các mối đe dọa sinh thái do sự phát triển của công nghệ, do sự phát triển tự phát của nền văn minh công nghiệp, thì ở Việt Nam, đe dọa sinh thái do sự kết hợp phát triển và lạc hậu, do ảnh hưởng nặng nề của nếp vẫn nghĩ rằng, từ dây chuyền sản xuất làm cho nhỏ trong cuộc sống và công nghiệp là không ổn định, không hoàn hảo.
Thiên nhiên nước ta trước đây bị hủy hoại bởi chiến tranh kéo dài, nhưng bây giờ bị phá hoại bởi những hoạt động vô thức, bởi thái độ thiếu trách nhiệm tùy tiện, thiếu quy hoạch trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Trước năm 1945, ở nước ta, độ che phủ rừng 43,8% diện tích bao phủ tới 28% (tức là ít đáng báo động 30%). Diện tích đất trồng đồi núi trọc đang bị xói mòn mạnh, lên khoảng 13,4 triệu ha. Lý do chính là do du canh du cư, gỗ, củi, làm đường, xây dựng thủy điện ..
Ô nhiễm môi trường cũng là vấn đề, chất thải công nghiệp, nước, các chất độc hại trong quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc đưa trực tiếp vào môi trường, gây bệnh và ô nhiễm môi trường sinh thái. KCN Biên Hòa I xả hàng ngày của khoảng 20.000m3 sông Đồng Nai bị ô nhiễm nước thải do không xử lý nước thải và chất rắn lãng phí 260-300 tấn / 1 tháng ... Chưa nói đến KCN Biên Hòa II.
Nồng độ bụi đô thị vượt quá nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Lượng khí thải CO2 vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần.
Bên cạnh các vấn đề khai thác mỏ, vật liệu xây dựng, vàng, đá quý và tự do .. chính thức cũng đã xấu đi môi trường sinh thái. Việc sử dụng các mỏ khai thác trong nhiều lĩnh vực đang làm việc ra sự cân bằng của môi trường sinh thái.
Mặc dù những hành động vô thức mà không có sự tham gia tích cực của các yếu tố kỹ thuật, vì vậy mà sự tàn phá môi trường đã không đạt được một mức độ nghiêm trọng như vậy của các nước công nghiệp phát triển, nhưng không phải là không có giá trị thảo luận.
Theo đánh giá môi trường kế hoạch quốc gia "bây giờ Việt Nam phải đương đầu với các vấn đề môi trường nghiêm trọng như phá rừng, đất, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên ven biển, đe dọa đến hệ sinh thái và sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên di truyền ..." Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ môi trường Phạm Khôi Nguyên đã khẳng định trong một cuộc họp môi trường quốc gia (10/1998) tại Hà Nội: Bảo vệ môi trường đã trở thành vấn đề sống còn của con người. Mọi sự phát triển sẽ trở nên không bền vững nếu chúng ta không quan tâm đến bảo vệ môi trường.
Như vậy rõ ràng các vấn đề bảo vệ môi trường không còn là một vấn đề riêng tư của một quốc gia mà là vấn đề của cả nhân loại. Mặc dù vấn đề này đã được thức tỉnh nhiều trước đó, từ ngày 1972/05/06 tại Stockholm (Thụy Điển), các nhà khoa học và đại diện chính phủ gặp nhiều quốc gia hội nghị môi trường thế giới lần đầu tiên để nhắc nhở "Mọi người hãy lưu lại cái nôi của chúng ta" và coi 5-6 ngày hàng năm ngày Môi trường thế giới. Sau đó 6-1992 ở Brazil, các hội nghị thượng đỉnh về môi trường thế giới diễn ra với sự tham gia của hơn 100 tổ chức quốc gia và quốc tế, một lần nữa khẳng định tình trạng suy thoái môi trường nghiêm trọng, thúc giục hiệp lực nước trong hợp tác với các trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Nhưng cho đến ngày hôm nay, tình hình vẫn không được cải thiện đáng kể như thế nào, và vấn đề ô nhiễm môi trường vẫn là vấn đề nóng bỏng của mỗi quốc gia.
Rõ ràng đây là một vấn đề rộng để giải quyết tốt hơn thời gian của nó, chỉ trong vòng một vài trang không thể đến với các biện pháp cụ thể để hoàn thành. Ở đây tác giả chỉ làm cho các định hướng cơ bản ban đầu, góp phần vào nhiệm vụ chung của tất cả là để duy trì quan hệ tốt đẹp giữa con người và môi trường của họ.
- Thứ nhất, để làm tốt công việc bảo vệ môi trường, chúng ta cần phải thay đổi nhận thức - xây dựng ý thức sinh thái.
Đó là để làm cho mọi người nhận thức được một sự tự ý thức về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Mọi người cần phải nhận thức được vị trí và vai trò của nó trong hệ thống của bản chất xã hội - con người - xã hội.
Thông qua phát triển khoa học và công nghệ và công nghệ người dân dần dần nắm bắt được quy luật tự nhiên và tìm cách áp dụng một luật hợp lý vào các hoạt động thực tế của xã hội, để tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho sự phát triển xã hội.
- Thứ hai, cần phải kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Ở Việt Nam, có một thời gian bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chúng tôi không có đủ tri giác cảm giác vị trí đầu về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường sinh thái. Điều kiện làm việc tách rời với sự phát triển kinh tế - xã hội thường diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp. Ý thức sinh thái tại mới đầu tiên các nhà khoa học, nhà quản lý ... nhưng không có sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội (Mặc dù gần đây có luật bảo vệ môi trường). Đối với tình hình đất nước chúng ta muốn tăng trưởng kinh tế là không có cách nào khác là để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Trung ương VIII Quốc hội khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái và đảm bảo tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và bền vững"
Đối với đất nước của chúng tôi để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đổi mới công nghệ đầu tiên để tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công nghệ trong hai cách: chuyển giao công nghệ và tự hấp thụ ngành công nghiệp hiện đại - công nghệ với hàm lượng chất xám và công nghệ sạch, từ đó chúng ta có thể thực hiện công nghiệp hóa hiện đại ngắn lại, và nó cũng là thực hành hiệu quả nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế và sinh thái. Kiên quyết không nhập gây ô nhiễm môi trường công nghệ sinh thái với bất kỳ điều kiện. Phát triển kinh tế trên các thiệt hại môi trường là đồng nghĩa với tương lai của câu nói. Do đó, mục tiêu chuyển giao công nghệ để làm chỉ để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo các vấn đề sinh thái.
-thứ Ba, vì vậy các nhà sản xuất cần phải làm cho xã hội thêm chức năng sinh sản của các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong một thời gian dài, chúng ta đã chi tiêu quá lãng phí nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo (nguyên liệu, nhiên liệu hóa thạch). Các nguồn tài nguyên là một vốn không thể thay thế được, người ta chỉ tìm thấy chúng và sử dụng chúng ồ ạt, chất thải và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và gây ô nhiễm môi trường. Sản xuất xã hội đã không quan tâm đúng mức đến hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, từ việc khai thác và chế biến, cũng như các sử dụng, quá trình sản xuất chưa đáp ứng được hầu hết các yêu cầu sinh thái, đã thải ra quá nhiều chất độc hại cho môi trường.
tư vấn môi trường
Để tránh tình trạng này, sản lượng sản xuất cần phải thực hiện thêm chức năng sinh sản của các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể là để thay thế các phương pháp sử dụng các nguồn lực tự nhiên từ nguồn rộng đến chiều sâu, cố gắng sử dụng hết tất cả tính năng vốn có của nó vì vậy mà lượng khí thải từ quá trình sản xuất, chất lượng chất thải đó, các sinh vật khác có thể sử dụng, môi trường có thể tiếp nhận và xử lý như chất thải khác sinh vật tự nhiên. Nói cách khác, phương pháp thực hiện đóng lại chu kỳ công nghệ, tức là đưa các chất thải sản xuất trong lĩnh vực tiêu dùng của sản xuất, tăng cường cái gọi là "công nghệ khô", giảm các chất độc hại trong sinh học.
Tóm lại, các yếu tố kinh tế, con người, môi trường, công nghệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Chỉ đồng bộ hóa việc thực hiện các yếu tố mới để tạo ra những tiến bộ thực sự của xã hội. Ở đây, người đàn ông là chủ đề của lao động trí tuệ và nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét